Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn, lừa dối hoặc đe dọa

Khi nào hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa? Bài viết dưới đây sẽ làm làm rõ vấn đề này.

1.  Người tham gia giao dịch không tự nguyện

Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận đạt được giữa các bên dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Khi xem xét các yếu tố của một thỏa thuận hoặc sự đồng ý, cần kiểm tra xem mong muốn của các bên đã được thống nhất (gặp mặt) chưa. Và nếu có thì thỏa thuận đó có khiếm khuyết gì không.

Do sự nhầm lẫn, lừa dối, đe doạ làm cho sự thoả thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng không còn chính xác nên đây là những nguyên nhân khiến hợp đồng có thể bị vô hiệu.

2.  Nhầm lẫn

Rất khó để đưa ra một định nghĩa pháp lý về sự nhầm lẫn. Một số luật gia tin rằng sự nhầm lẫn là một “niềm tin không tương ứng với thực tế”. Trong khi đó, những người khác coi sự nhầm lẫn là “sự khác biệt giữa ý chí bên trong và bên ngoài”. Tổng hợp lại, sự nhầm lẫn làm cho sự thể hiện bên ngoài ý chí của một bên không phù hợp với ý chí thực sự bên trong của họ. Dẫn đến không thỏa thuận được nên về nguyên tắc.

Sự nhầm lẫn làm cho hợp đồng vô hiệu do không có sự thống nhất về mặt ý chí giữa các bên. Tuy nhiên, để đảm bảo tính ổn định của trao đổi tư nhân, các nhà làm luật chỉ công nhận sự nhầm lẫn là nguyên nhân dẫn đến vô hiệu hợp đồng trong một số trường hợp nhất định. Pháp luật một số nước thường chia sự nhầm lẫn – nguyên nhân dẫn đến hợp đồng vô hiệu thành ba loại.

Hình ảnh minh họa

Cụ thể:

– Nhầm lẫn về bản chất hợp đồng. Chẳng hạn, A nghĩ là B cho mình mượn tài sản, B lại nghĩ mình gửi giữ tài sản cho A.

– Nhầm lẫn về đối tượng của nghĩa vụ của hợp đồng. Chẳng hạn, A nghĩ bán cho B lô đất 1, trong khi B lại nghĩ A bán cho mình lô đất 2; Hoặc A và B ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa, A tưởng phải giao hàng hóa tại địa điểm X, trong khi B nghĩ A phải giao hàng tại địa điểm Y…).

– Nhầm lẫn về các yếu tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới sự thỏa thuận của các bên. Thực chất, ở đây muốn nói tới nhầm lẫn về một động cơ nào đó khiến một người muốn ký kết hợp đồng. Về nguyên tắc, nhầm lẫn về một yếu tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể là nguyên nhân khiến hợp đồng vô hiệu khi yếu tố này đã được bên kia chú ý tới. Trừ phi, căn cứ vào bản chất hợp đồng và hoàn cảnh cụ thể, đó là một yếu tố hiển nhiên.

Vì vậy, một người mua một bức tượng chỉ vì anh ta nhầm tưởng rằng bức tượng này đã từng được tác giả trưng bày ở salon chỉ có thể yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu nếu anh ta đã từng nói tại sao anh ta lại có ý định mua bức tượng đó với người bán.

Căn cứ pháp lý:

Không theo cách tiếp cận bằng việc phân chia các loại nhầm lẫn, Bộ luật dân sự tại Điều 126. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn:

“1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.”

3. Lừa dối

Điều 127 “Bộ luật Dân sự” quy định:

“Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.

Từ định nghĩa này có thể rút ra hai yếu tố của tội lừa dối. Về mặt chủ quan, lừa dối là hành vi cố ý của một bên hoặc bên thứ ba. Về mặt khách quan, lừa dối là hành vi làm cho bên kia bị lừa dối; làm sai và ký kết hợp đồng.

Hình ảnh minh họa

3.1. Mặt chủ quan của hành vi lừa dối

Hành vi cố ý của người lừa dối thường biểu hiện là thủ đoạn gian dối. Chẳng hạn người bán khai man nơi xuất xứ, nguồn gốc của hàng hóa bán…

Khái niệm lừa dối trong pháp luật dân sự khác với khái niệm “lừa đảo” trong luật hình sự. Tất nhiên, không có sự khác biệt về bản chất. Song, có sự khác biệt về mức độ giữa lừa dối và lừa đảo. Lừa dối là lừa dối, nhưng lừa dối không nhất thiết được coi là lừa đảo. Vì vậy, ngay cả khi kẻ lừa đảo không bị truy tố hình sự, hành vi lừa dối có thể dẫn đến một vụ kiện dân sự. Tuy nhiên, lừa dối phải xuất phát từ mục đích lừa dối rõ ràng.

Ví dụ:

Trong kinh doanh, các thương nhân thường cố gắng giới thiệu sản phẩm của mình bằng những quảng cáo hấp dẫn. Nhưng những quảng cáo này thường khác xa với thực tế. Những quảng cáo này không được coi là gây hiểu lầm. Bởi vì một mặt, bản thân người mua có nghĩa vụ phải cẩn thận. Hay nói cách khác là tự mình nghiên cứu và đánh giá thông tin, nghĩa vụ tự tìm hiểu và đánh giá thông tin. Mặt khác, vì sự ổn định của các giao lưu dân sự; thương mại; luật pháp không thể đi xa tới mức bảo vệ đến cả sự “ngây thơ” của một bên giao kết.

Sự im lặng của một bên có bị coi là lừa dối?

Trước kia, trong một thời gian dài, người ta quan niệm “im lặng không phải là lừa dối”. Tuy nhiên, một hành vi cố ý có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Vì vậy, sự im lặng của một bên sẽ bị xem là lừa dối nếu thông tin bị che giấu là thông tin mà người đó có nghĩa vụ phải thông báo. Đồng thời, phía bên kia không biết và không buộc phải biết.

3.2. Mặt khách quan của hành vi lừa dối

Hành vi lừa dối phải khiến bên kia bối rối. Sự nhầm lẫn của một bên là kết quả của ý muốn của bên kia. Nếu sự nhầm lẫn do người lập hợp đồng gây ra chỉ giới hạn ở sự nhầm lẫn về “nội dung” của hợp đồng thì phạm vi lỗi do sự lừa dối của bên kia lại rộng hơn. Đó là nhầm lẫm về chủ thể giao kết; nhầm lẫn về tính chất của đối tượng và về nội dung của hợp đồng.

4. Đe dọa

Đe dọa trong giao dịch dân sự được hiểu là “hành vi một bên hoặc người thứ ba cố ý ép buộc bên khác phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình. cha, mẹ, vợ, chồng, con”.

Do đó, người đe dọa có thể là một bên trong giao dịch hoặc người thứ ba. Việc đe dọa phải có tính chất nghiêm trọng; ảnh hưởng lớn đến ý chí của bên kia đến mức khiến bên kia lo sợ mà thực hiện. ký kết hợp đồng.

Đọc thêm bài viết tại đây: Giao dịch dân sự bị vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.

Để được tư vấn cụ thể trong từng vụ việc khách hàng vui lòng liên hệ:
CÔNG TY LUẬT TNHH QUỐC TẾ THÁI BÌNH
Địa chỉ: Số 69/102 phố Hoàng Đạo Thành, phường Kim Giang, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Hotline: 0916 600 886
Email: cskh.tblaw@gmail.com
Website: https://luatthaibinh.com/
Xin chân thành cảm ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *